Những thay đổi trong vai trò của gia đình
Một gia đình theo truyền thống Úc gồm có cha mẹ và con cái. Ngày nay mô hình gia đình có nhiều hình thái và số người trong gia đình cũng khác. Chẳng hạn như nhiều gia đình chỉ có cha, hoặc chỉ có mẹ với con cái, có gia đình gồm một hỗn hợp con anh, con tôi, con chúng ta; có gia đình vợ chồng là người cùng phái (cả hai đều là đàn ông, hoặc đàn bà), có những cặp vợ chồng sống với nhau không cần hôn thú (defacto). Tại Úc, các cặp vợ chồng thuộc loại vừa kể (de-facto) được pháp luật công nhận
Vai trò các cá nhân trong gia đình cũng có thể có những khác biệt. Ở một số gia đình, người mẹ có thể là người đi làm có thu nhập nuôi gia đình, còn người cha ở nhà chăm sóc con cái.
Ở Úc hôn nhân chỉ có thể được xác lập khi mà cả hai bên đều thuận lòng muốn lấy nhau. Tuổi tối thiểu để được phép kết hôn là 18 tuổi. Tuy vậy, tòa án có thể ra quyết định cho người 16 hoặc 17 tuổi được kết hôn trong những trường hợp đặc biệt. Những ai có hai vợ (hoặc hai chồng) là phạm pháp.
Có người Úc đặc trưng không?
Trong những năm qua đã có nhiều tranh cãi về bản sắc riêng của người Úc và có nhiều người đặt câu hỏi là liệu có gì đó để mô tả một người Úc ‘đặc trưng’ hay không, ví dụ như những chuẩn mực hoặc phong cách nào đó.
Có vô số những tiêu chuẩn phổ biến để mô tả một người Úc ‘đặc trưng’, nhiều khi nhiều quá làm người ta không biết hiểu thế nào cho đúng vì đôi khi những tiêu chuẩn này lại mâu thuẫn với nhau.
Ví dụ như:
- Người Úc là người bản chất công bằng, không ưa kiểu cách và đầu óc mang nặng mối nghi ngờ chính quyền – ấy thế nhưng phần đông họ lại là những người tuân thủ pháp luật và rập theo khuôn phép.
- Người Úc là những người vốn ít lời, chủ yếu sống ở vùng nông thôn hoặc những vùng rừng núi – ấy thế nhưng phần đông số dân lại có lối sống thị thành ở những đô thị lớn.
- Người Úc dù sinh sống ở thành phố hay ở nông thôn là những người rất cởi mở và thẳng thắn, họ nghĩ sao nói vậy.
- Người Úc tin vào nguyên tắc tạo cho mọi người sự ‘công bằng’ (‘fair go’) (coi giải thích nghĩa của chữ này ở mục ‘tiếng Anh Úc’ (‘Australian English’). Xem trang 32.
- Người Úc khảng khái bênh vực ‘mates’ (bạn bè), những người bị thua thiệt và kẻ yếu thế. Kẻ yếu thế là những kẻ đứng ra tranh tài hoặc là một đối thủ mà không có hy vọng gì thắng trong một cuộc thi đấu thể thao hay tranh tài.
- Người Úc ưa thích các môn thể thao, vừa với tư cách người chơi, vừa với tư cách người xem.
Cũng có nhiều ý kiến trái ngược về mức độ ảnh hưởng đối với người Úc do họ kế thừa truyền thống Anh và gần đây hơn là do mối quan hệ gần gũi giữa Úc với Mỹ, hoặc do hàng triệu người di dân đã tới Úc nhập cư trong những năm sau chiến tranh
Ðôi khi người ta coi người Úc như là những người châu Âu đang cố gắng thích nghi với hoàn cảnh do vị trí địa lý trong khu vực châu Á Thái bình dương. Thế nhưng nước Úc cũng đồng thời được coi như là cửa ngõ mở vào châu Á do vị trí địa lý và cũng do có nhiều người dân Úc biết ngôn ngữ của nhiều nước châu Á.
Sự thật là cũng như người dân ở những nơi khác, khó có thể dùng một tiêu chuẩn nào đó để mô tả một người Úc đặc trưng. Nhiều đặc tính có thể có đúng và nhiều người Úc có thể ít nhiều phù hợp với một số hình ảnh đó. Tuy nhiên, hình ảnh nào và giống đến mức nào còn tùy thuộc vào từng cá nhân.
Một số đặc tính rất gần với một người Úc tiêu chuẩn, thí dụ như ‘mateship’ (tình bạn) và công bằng (fair go), là những đặc tính phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới. Rõ ràng những phẩm chất như là lòng khoan dung, sự công bằng và trung thành với bạn bè không phải là những đặc tính riêng của người Úc.
Nhưng điều làm cho những danh từ này mang nặng tính chất Úc là chúng đã gắn liền với lịch sử nước Úc và ăn sâu vào tâm khảm của người Úc.
Khái niệm về tình bạn và sự công bằng thường đã có mầm mống từ cuộc vật lộn gian khổ để sống còn của những người đầu tiên tới định cư ở Úc chống lại một môi trường xa lạ, khắc nghiệt và thường là thù địch với con người. Những phẩm chất này tiếp tục được củng cố bởi những thế hệ sau này ở nơi rừng rú họ phải dựa vào nhau và giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua thiên tai lũ lụt, hỏa hoạn và hạn hán.
Thi sĩ Henry Lawson, chào đời năm 1867 ở vùng khai thác vàng Grenfell ở New South Wales, có lẽ là người ghi chép sử chi tiết nhất của nước Úc thời kỳ đó. Bằng lời văn giản dị và đầy thương cảm, ông viết về tình bạn, về nhân phẩm con người và về cuộc đời những người dân bình thường trong núi rừng nước Úc.
Phẩm chất tốt đẹp về tình bạn và lòng trung thành càng ngày càng thể hiện đậm nét trong tâm hồn Úc qua hành động của những người Úc trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, đôi khi được gọi trận Ðại chiến, và trận chiến của Quân đoàn Anzac tại Gallipoli.
Những phẩm chất đó cùng với những đức tính quý báu của những người dân Úc thời khai nguyên lập nước tiếp tục sống mãi cho tới ngày nay, và ngày càng được củng cố sâu đậm hơn và phong phú hơn nhờ ảnh hưởng của hàng triệu người di dân tới Úc sau này từ châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi và Trung đông.
Những di dân mới tới đã làm giàu thêm cho nền văn hóa Úc và phong cách Úc, và cũng góp phần vào việc hun đúc thái độ mới, truyền thống mới. Ðóng góp to lớn của họ đã làm cho đời sống Úc trong tất cả mọi lĩnh vực càng trở nên đặc sắc hơn từ thương mại cho tới nghệ thuật, từ thức ăn cho tới hài kịch.
Làm thiện nguyện – tình bạn thực tiễn
Người Úc nổi tiếng về tinh thần sẵn sàng tham gia công việc xã hội và tự nguyện phục vụ cộng đồng không cần thù lao. Hơn sáu triệu người Úc trên 18 tuổi hiện nay đang tích cực làm công tác tình nguyện, góp tay trong một loạt công tác ở nhiều lĩnh vực như là cấp cứu, công tác xã hội, bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên, quyên góp, quản lý, dạy học và hành chính.
Có nhiều nhân viên trong lực lượng cứu hỏa khi cháy rừng và nhân viên dịch vụ cấp cứu ở Úc là người tình nguyện
Theo sự thăm dò, 47 phần trăm người đã từng làm công việc thiện nguyện cho biết lý do họ tình nguyện vì muốn phục vụ cộng đồng. Số 43 phần trăm còn lại cho biết làm thiện nguyện đem lại cho họ sự thỏa mãn tinh thần.
Tiếng Anh ‘Úc’
Mặc dù tiếng Anh là quốc ngữ của Úc, một số từ và thành ngữ đã trở thành lối nói riêng của người Úc do được phổ biến rộng rãi. Ðối với những người mới tới Úc thì những từ ngữ và thành ngữ này nghe có vẻ lạ tai và khó hiểu.
Những thành ngữ thông dụng và tiếng lóng kể trên có xuất xứ từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Một số từ là cách nói rút gọn của những từ dài hơn. Nhiều thành ngữ có nguồn gốc ở miền bắc nước Anh, nhưng do di dân từ đó sang Úc nên những thành ngữ này trở thành những từ của Úc. Người Úc cũng hay nói gọn cho dễ hiểu ví dụ như chữ bóng đá ‘football’ nói gọn thành ‘footy’, máy truyền hình ‘television’ nói gọn thành ‘telly’ và ‘barbecue’ (các món ăn nướng ngoài trời) hay bác-bơ-kiu nói gọn thành bác-bi ‘barbie’.
Việc dùng những chữ này kèm theo kiểu nói khôi hài của người Úc diễn tả một sự chua chát có phần cay đắng đôi lúc có thể làm cho người nghe khó hiểu.
Nếu cảm thấy không hiểu được người ta muốn nói gì, quý vị đừng ngại ngần mà nên hỏi lại để người đó giải thích.
Một số thành ngữ quý vị có thể thỉnh thoảng thấy nói như là: Arvo: nói gọn từ chữ ‘afternoon’ có nghĩa là buổi chiều – ví dụ như khi người ta nói câu ‘chiều nay tới nhé’ (‘drop by this arvo’).
Barbecue, BBQ, Barbie: Bác-bơ-kiu, BBQ, bác-bi là làm đồ nướng ngoài trời, thường có nghĩa là nướng thịt bằng lò ga hoặc lò than. Chủ nhà mời món thịt nướng với xà lách và bánh mỳ. Thường những người khách được mời tới ăn BBQ đều hỏi chủ nhà xem họ có cần mang gì tới không. Món ‘snag’ là loại xúc xích sống thường được nướng BBQ. Xúc xích có thể nhồi thịt heo, bò, gà, rau hoặc ngũ cốc như đậu
Barrack for: ủng hộ hoặc cổ võ (thường là cách nói cổ võ cho đội thể thao).
Bloke: nghĩa là một anh chàng, một người đàn ông. Ðôi khi nếu quý vị hỏi nhờ ai giúp việc gì, có thể nghe người đó nói câu ‘tới gặp anh chàng ở đằng kia kìa’ (‘see that bloke over there).
Bring a plate: nếu được mời tới dự tiệc hoặc buổi chiêu đãi và nếu nghe người ta nói xin mang tới một đĩa ‘bring a plate’, thì có nghĩa là người đó muốn quý vị mang một đĩa đồ ăn tới góp cho buổi tiệc cùng với chủ nhà và khách khứa. Tập quán này thường áp dụng trong các cuộc họp mặt đông như là ở trường học, nơi làm việc hoặc câu lạc bộ. Nếu không biết nên mang món gì tới, quý vị nên hỏi người đã mời mình.
BYO: nếu nhận được lời mời trong đó có ghi chữ ‘BYO’, có nghĩa là quý vị nên mang theo đồ uống. Nếu quý vị không uống rượu, thì có thể mang nước trái cây, nước ngọt, sô-đa hoặc nước uống bình thường. Có những tiệm ăn BYO, quý vị có thể mang theo rượu, nhưng thường các nhà hàng này sẽ tính thêm tiền mở chai, phục vụ và rửa ly, gọi là tiền ‘mở rượu’ ‘corkage’
Cuppa: có nghĩa là tách trà hoặc cà phê. Khi nghe người ta nói ‘Drop by this arvo for a cuppa’ có nghĩa người ta muốn mời quý vị ghé tới chiều nay dùng trà hoặc cà phê.
Digger: là một người lính Úc.
Go for your life: Ừ, làm đi.
G’day: nghĩa như là ‘Xin chào. Khỏe không?’ (‘Hello. How are you?)
Fair go: đối xử công bằng, có nghĩa là một người thành đạt trong cuộc đời là nhờ vào tài năng, công sức, nỗ lực chứ không phải vì họ là con ông, cháu cha hay là được ưu đãi
Fortnight: tức là thời gian hai tuần.
No worries: Không sao. Công việc hoặc yêu cầu sẽ được thực hiện chẳng có gì nhọc nhằn hoặc có gì đáng kể.
Ocker: nghĩa là người Úc thô thiển, thiếu tế nhị, yêu nước mù quáng, nhưng chữ này cũng có nghĩa là một người có những đức tính tiêu biểu của người Úc thí dụ có óc khôi hài, sẵn lòng giúp đỡ người khác và tháo vát.
Shout: nghĩa là đãi ai một chầu uống. Khi nhóm bạn gặp nhau ở quán rượu, thường mỗi người ‘shout a round’, nghĩa là mua cho mỗi người một ly đồ uống. Rồi tới lượt người khác cũng làm thế.
To be crook: nghĩa là bị ốm hoặc bất an trong người.